Văn hóa truyền thống là gì? Các công bố khoa học về Văn hóa truyền thống

Văn hóa truyền thống là một thuật ngữ để chỉ những giá trị, quan niệm, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, nghệ thuật và kiến thức được truyền từ thế hệ này sang thế...

Văn hóa truyền thống là một thuật ngữ để chỉ những giá trị, quan niệm, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, nghệ thuật và kiến thức được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong một cộng đồng hay quốc gia. Văn hóa truyền thống thể hiện sự độc đáo và đặc trưng của một dân tộc, nhóm etnic, khu vực địa lý hay xã hội. Nó thường được duy trì và phát triển qua các hoạt động như truyền miệng, lễ hội, nghệ thuật truyền thống, âm nhạc, múa rối và nghi thức tôn giáo. Văn hóa truyền thống có vai trò quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng, duy trì và phát huy những giá trị đặc biệt của một quốc gia hoặc dân tộc.
Văn hóa truyền thống bao gồm một loạt các yếu tố và thành phần khác nhau, bao gồm:

1. Giá trị: Đây là những quan niệm và nguyên tắc mà một cộng đồng hay quốc gia coi trọng và tuân thủ trong cuộc sống hàng ngày. Ví dụ, tôn trọng gia đình, lòng biết ơn, lòng trung thành và sự kính trọng lễ nghi.

2. Phong tục và tập quán: Đây là những hành động và quy tắc xã hội mà người dân tuân thủ trong các dịp đặc biệt hoặc trong cuộc sống hàng ngày. Ví dụ, phong tục ăn mừng, lễ cưới, tang lễ và lễ hội.

3. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ là công cụ truyền tải kiến thức và giữ gìn văn hóa truyền thống. Hình thức ngôn ngữ và cách sử dụng từ ngữ thường phản ánh giá trị và quan niệm văn hóa của một cộng đồng. Ví dụ, lời chúc mừng năm mới, câu chuyện cổ tích và ca dao.

4. Nghệ thuật truyền thống: Nghệ thuật truyền thống như nhạc, hát, múa, hài kịch, múa rối và đồ gốm thường được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như một phần của văn hóa truyền thống.

5. Kiến thức truyền thống: Đây là kiến thức, kỹ năng và phương pháp truyền thống đã được tích lũy và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ví dụ, phương pháp trồng trọt, chế tác đồ gỗ, gia công vải và đồ da.

Văn hóa truyền thống không chỉ là một phần quan trọng của sự đa dạng văn hóa toàn cầu, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên bản sắc và danh tiếng của một dân tộc hoặc quốc gia. Nó cũng giúp duy trì định hình và ổn định cộng đồng, cung cấp một khung cảnh văn hóa chung cho các thành viên trong cộng đồng và tạo ra sự kết nối giữa những thế hệ.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "văn hóa truyền thống":

Hiệu quả của việc trình bày hình ảnh truyền thông thon thả lên sự hài lòng về hình thể: Một bài đánh giá phân tích tổng hợp Dịch bởi AI
International Journal of Eating Disorders - Tập 31 Số 1 - Trang 1-16 - 2002
Tóm tắtMục tiêu

Ảnh hưởng của các thao tác thí nghiệm đối với tiêu chuẩn sắc đẹp mỏng manh, như được miêu tả trong truyền thông đại chúng, lên hình ảnh cơ thể nữ được đánh giá bằng cách sử dụng phân tích tổng hợp.

Phương pháp

Dữ liệu từ 25 nghiên cứu (43 kích thước hiệu ứng) được sử dụng để kiểm tra tác động chính của các hình ảnh truyền thông về tiêu chuẩn thon thả, cũng như tác động điều chỉnh của các vấn đề hình ảnh cơ thể sẵn có, độ tuổi người tham gia, số lần trình bày kích thích, và loại thiết kế nghiên cứu.

Kết quả

Hình ảnh cơ thể trở nên tiêu cực hơn đáng kể sau khi xem hình ảnh truyền thông mỏng manh so với sau khi xem hình ảnh của các mô hình kích cỡ trung bình, mô hình kích cỡ lớn, hoặc các đối tượng vô tri vô giác. Hiệu ứng này mạnh mẽ hơn trong các thiết kế giữa các chủ thể, người tham gia dưới 19 tuổi, và đối với người tham gia dễ bị kích hoạt mô hình mỏng manh.

Kết luận

Kết quả ủng hộ quan điểm văn hóa xã hội cho rằng truyền thông đại chúng quảng bá một lý tưởng thon thả gây ra sự không hài lòng về hình thể. Các hệ quả cho phòng ngừa và nghiên cứu về quá trình so sánh xã hội được xem xét. © 2002 bởi John Wiley & Sons, Inc. Int J Eat Disord 31: 1–16, 2002.

#hình ảnh cơ thể #truyền thông đại chúng #lý tưởng thon thả #phân tích tổng hợp #không hài lòng về cơ thể #văn hóa xã hội #so sánh xã hội.
Giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở Tây Bắc phục vụ cho mục đích phát triển du lịch cộng đồng
800x600 Du lịch cộng đồng là một trong những loại hình du lịch phát triển khá nhanh trong những năm gần đây. Ở Việt Nam, loại hình du lịch này đã xuất hiện và mang lại hiệu quả kinh tế cao ở một số vùng miền, trong đó có Tây Bắc. Là vùng đất nằm ở phía Tây của Tổ quốc, nơi cư trú của nhiều đồng bào dân tộc ít người với bản sắc văn hóa truyền thống đa dạng, đặc biệt là dân tộc Thái, nên Tây Bắc có nhiều ưu thế cho việc phát triển du lịch cộng đồng. Hơn nữa, vấn đề khai thác hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái phục vụ cho phát triển loại hình du lịch này đang là hướng đi đúng nhằm phát huy lợi thế của vùng. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman","serif";}
#du lịch cộng đồng #giá trị văn hóa #dân tộc Thái
Hệ thống đồ thờ truyền thống trong từ đường ở miền Bắc Việt Nam
Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn - Tập 6 Số 1 - Trang 67-94 - 2020
Với định hướng nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, dựa trên nguồn tư liệu thành văn và tư liệu thực tế, bài viết cung cấp một số tri thức căn bản về hệ thống đồ thờ truyền thống trong từ đường Việt Nam với khoảng 40 loại đồ thờ được phân bố theo cấu trúc của không gian thờ tự cổ truyền Bắc Bộ. Bài viết sử dụng các phương pháp điền dã, thống kê, phân loại, đối chiếu, phân tích tổng hợp, kết hợp sử dụng các phương pháp văn hóa học, nhân học văn hóa, nhân học tôn giáo và nghiên cứu liên ngành để lý giải sự tiếp biến của đồ thờ thể hiện qua chất liệu, kiểu mẫu, đồ án trang trí, sự thay đổi về vị trí bày biện, công năng và phạm vi sử dụng. Bài viết cho rằng lễ nghi, phong tục thờ cúng nói chung và đồ thờ nói riêng không phải là thứ “nhất thành bất biến”, tùy thời, tùy tục mà có sự châm chước ít nhiều. Chúng ta không ngại chấp nhận sự thay đổi, sáng tạo, nhưng thay đổi, sáng tạo cần dựa trên nền tảng tri thức, sự hiểu biết đúng đắn và thấu đáo về văn hóa và lễ nghi truyền thống. Ngày nhận 13/11/2019; ngày chỉnh sửa 28/01/2020; ngày chấp nhận đăng 28/02/2020
#đồ thờ #từ đường #văn hóa dòng họ.
Thơ Nôm Nguyễn Trãi và truyền thống văn hóa Việt
800x600 Nếu thành ngữ cho thấy tập quán, tâm lí của dân tộc, tục ngữ là túi khôn của dân tộc và ca dao bộc lộ đời sống tình cảm của dân tộc thì Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, tập thơ chữ Nôm xưa nhất còn lại đến nay, hàm chứa trong nó cả ba yếu tố này để tạo nên một tính cách Việt phổ quát và tiêu biểu. Tác phẩm có thể xem là một kho báu về kinh nghiệm sống, những minh triết trong ứng xử với môi trường tự nhiên, với đời sống xã hội, với tha nhân và cả với bản thân mình. Ở đó, lấp lánh bản sắc văn hóa Việt trong từng nghĩ suy, quan niệm, cảm xúc, thái độ sống của nhà thơ. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Cambria","serif";}
#thơ Nôm Nguyễn Trãi #văn hóa Việt
QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH GIÁO DỤC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI CHỖ KHU VỰC TÂY NGUYÊN
Bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số là chiến lược phát triển bền vững quốc gia, là nhiệm vụ chung của toàn xã hội trong đó giáo dục giữ vai trò quan trọng nhất. Bằng con đường giáo dục và thông qua giáo dục, các giá trị về vật chất và tinh thần, các kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, kinh nghiệm ứng xử, lối sống, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, ẩm thực, trang phục…của các dân tộc thiểu số được lưu truyền, tồn tích, vận hành kết nối giữa các thế hệ. Giáo dục giúp cho học sinh hiểu biết về bản sắc văn hóa truyền thống, tôn trọng, giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình, tôn trọng giá trị bản sắc văn hóa của các dân tộc anh em khác. Bài báo phân tích thực trạng giáo dục bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số tại chỗ ở các trường phổ thông dân tộc nội trú khu vực Tây Nguyên từ đó đề xuất hệ thống các giải pháp quản lý phát triển mô hình giáo dục bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số tại chỗ ở các trường phổ thông dân tộc nội trú khu vực Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
#Quản lý phát triển mô hình #Giáo dục bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống #Các dân tộc thiểu số tại chỗ #Các trường phổ thông dân tộc nội trú #Khu vực Tây Nguyên
Văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa
Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn - Tập 3 Số 4 - Trang 530-532 - 2017
Theo một nghiên cứu độc lập của Huỳnh Văn Thông (2013), tỷ lệ người có độ tuổi dưới 30 có thói quen truy cập internet sau 22h là 78.2% và 42.8% trong đó thường xuyên truy cập internet sau 24h. Từ đó hình thành nên chu kỳ ngủ-thức kiểu “cú” (ngủ muộn dậy muộn) thay vì kiểu “chiền chiện” (ngủ sớm dạy sớm) như trước đây. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều ví dụ thú vị và “thường ngày” như đoạn dẫn trên trong cuốn sách “Văn hóa đại truyền thông đại chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa” (Đặng Thị Thu Hương chủ biên) để thấy được truyền thông càng ngày càng tác động mạnh mẽ vào từng hoạt động bình thường của công chúng cũng như có ảnh hưởng sâu rộng đến một vấn đề nền tảng nhất trong nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn: Văn hóa. Cuốn sách này đặc biệt ở chỗ nó giới thiệu một cách đầy đủ và có hệ thống các lý thuyết đương đại của thế giới về truyền thông đại chúng và văn hóa đại chúng (mass culture) cũng như việc ứng dụng và kiểm nghiệm các lý thuyết đó vào thực tiễn Việt Nam thông qua các khảo sát công chúng (diện rộng với hàng nghìn bảng hỏi được phân bố theo địa lý) và phân tích nội dung (từ các chủ đề “hot” như người nổi tiếng  cho đến giá trị văn hóa được thể hiện như thế nào trên báo chí). Chính sự công phu trên làm cho cuốn sách trở thành một công trình đáng chú ý khi việc nghiên cứu truyền thông ở nước ta còn chưa quá phát triển so với sự tăng tốc nhanh chóng của ngành công nghiệp truyền thông trong bối cảnh kỹ thuật số và toàn cầu hóa. Cuốn sách được chia thành năm chương lớn, trong đó chương 1 giới thiệu các vấn đề lý thuyết chung và phương pháp nghiên cứu của toàn bộ nghiên cứu, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vào bối cảnh toàn cầu hóa của thế giới nói chung và kinh tế thị trường (định hướng XHCN) nói riêng tại Việt Nam; chương 2 giới thiệu văn hóa truyền thông đại chúng (VHTTDC) ở một số quốc gia (Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ); chương 3 phân tích VHTTDC Việt Nam nhìn từ kênh truyền thông đại chúng; chương 4 phân tích VHTTDC Việt Nam nhìn từ góc độ công chúng tiếp nhận, và cuối cùng chương 5 khuyến nghị các vấn đề của VHTTDV: Nhìn về phía tương lai. Chương 1 của cuốn sách rất có giá trị khi đưa ra được một cái nhìn tổng quan về các thuật ngữ quan trọng nhất: “văn hóa”, “truyền thông đại chúng” (TTDC), “văn hóa đại chúng” trong đó nhấn mạnh vào tính liên ngành khi tiếp cận vấn đề thông phương tiện TTDC (báo chí, internet,…). Hướng tiếp cận này nhấn mạnh vào ba khía cạnh chính: một là, chính các phương tiện TTDC là một hiện tượng văn hóa. Hai là, các phương tiện truyền thông là công cụ để truyền bá văn hóa. Ba là, văn hóa TTDC là giá trị sản phẩm do  phương tiện TTDC mang lại cho công chúng của mình. Đây là hướng tiếp cận hợp lý để có thể triển khai nghiên cứu liên ngành văn hóa-truyền thông, khác với quan niệm thông thường khi cho rằng phương tiện TTDC chỉ là vấn đề kỹ thuật hoặc hình thức. Từ đó, các tác giả tổng quan các nhóm lý thuyết chính hiện nay là: hướng tiếp cận từ lý thuyết về nghiên cứu văn hóa, hướng tiếp cận từ lý thuyết tâm lý học, hướng tiếp cận từ lý thuyết báo chí truyền thông, hướng tiếp cận từ lý thuyết hiện đại và hậu hiện đại. Quan trọng nhất, phần cuối của chương 1, các tác giả đã phân tích được bối cảnh hiện nay của ngành công nghiệp truyền thông, công nghiệp văn hóa Việt Nam (với các số liệu và phân tích chính sách vĩ mô rất chi tiết) trong các biến đổi phức tạp của thế giới toàn cầu hóa và nền kinh tế thị trường để thấy được các vấn đề thực tiễn cần được nghiên cứu nhằm “làm giàu cho nền văn hóa Việt Nam” và “ngặn chặn loại trừ khỏi cuộc sống xã hội  những mầm hại cỏ độc xâm nhập theo các kênh thông tin”. Chương 2 tổng kết qua các nét lớn trong văn hóa TTDC ở 3 quốc gia: Mỹ (có ảnh hưởng đến toàn cầu), Trung Quốc (có bối cảnh xã hội tương tự với Việt Nam), và Hàn Quốc (hiện tượng văn hóa TTDC đặc biệt nhất trong giai đoạn hiện nay). Tuy vậy, chương này mới đưa ra các hiện tượng ở từng nước riêng rẽ mà chưa có một cái nhìn xuyên suốt để chỉ ra các so sánh trực tiếp với Việt Nam (đối tượng nghiên cứu chính). Chương 3 và 4 tiếp cận văn hóa TTDC theo hai góc độ kinh điển với nghiên cứu truyền thông: kênh và công chúng. Điểm hấp dẫn nhất của hai chương này là đều có số liệu định lượng cụ thể và cập nhật (ai, giờ nào, thường tiếp xúc với kênh thông tin nào, tiếp nhận thông tin nhiều hay ít,…) đi kèm với các kết luận, từ đó giúp người đọc dễ dàng hình dung ra sự biến đổi liên tục của văn hóa thông qua TTDC. Hai chương rất sinh động khi đưa các vấn đề “nóng”, gây bức xúc như truyền thông sa đà vào hiện tượng người nổi tiếng dẫn đến “văn hóa giải trí mới”, xuất bản phẩm “ngôn tình” dẫn đến sự lệch lạc trong quan điểm của người trẻ,… Chương 4 còn công phu trong việc nghiên cứu toàn diện công chúng từ bối cảnh của công chúng cho đến sự thay đổi cụ thể các hành vi của công chúng trong quá trình “sống với” văn hóa TTDC. Chương 4 còn bước đầu chỉ ra các hướng cụ thể trong nghiên cứu công chúng hiện nay: công chúng với văn hóa giải trí, công chúng với văn hóa tiêu dùng và tiêu dùng văn hóa, công chúng và sự biến đổi ngôn ngữ trong quá trình truyền thông và những hệ lụy mà ngôn ngữ mới đó đem lại. Chương 5 hướng đến việc đưa ra các giải pháp vĩ mô về mặt chính sách sau khi đã rút ra các kết luận lớn từ thực tiễn của chương 3 và chương 4. Các giải pháp được đưa ra đồng bộ trên nhiều phương diện: luật pháp, đầu tư, giáo dục,… nhưng nhấn mạnh nhất vào việc phải có sự hợp tác và hiểu biết đồng thời từ cả các nhà quản lý, nhà báo và người dân-công chúng thụ hưởng và tiêu thụ truyền thông để hướng tới “văn hóa TTDC phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước”. Tựu chung lại, đây là một chuyên khảo thành công với một lượng lớn lý thuyết được xử lý nhuần nhuyễn, khảo sát công phu với số lượng mẫu lớn, các kết luận chắc chắn đáng tin cậy bởi khả năng xử lý số liệu tốt, các phân tích sâu về mặt chính sách đều dựa trên việc trích dẫn hợp lý các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước cùng với sự hậu thuẫn của nhãn quan lý thuyết và số liệu thực tế. Chính vì thế, bất kỳ sinh viên ngành báo chí truyền thông, nhà báo, người thực hành và quản trị truyền thông,… đều nên lấy đây là một tài liệu tham khảo quan trọng.
Bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống người Cơ tu ở huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng: Những thách thức trong bối cảnh đô thị hóa
Người Cơ tu ở Đà Nẵng là một nhánh trên con đường phân ly tộc người của người Cơ tu ở tỉnh Quảng Nam. Trong quá trình đô thị hóa, họ đã tiếp cận đạt được những thuận lợi nhất định về nhiều mặt. Nhưng do cộng đồng người Cơ tu ở huyện miền núi Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng vẫn ở một xuất phát điểm thấp so với mặt bằng chung ở Việt Nam, nên đã xảy ra hiện tượng nhiễu loạn văn hóa truyền thống của tộc người. Vậy làm thế nào để người Cơ tu ở huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng vẫn duy trì được sự hội nhập, phát triển của vùng, mà vẫn bảo lưu được sự có mặt của các giá trị văn hóa truyền thống tộc người. Bài viết này muốn đề cập và phân tích những thách thức mà cộng đồng người nơi đây đang gặp phải trong việc bảo tồn, và phát triển văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
#Cơ tu #văn hóa truyền thống #thách thức #Đà Nẵng #đô thị hóa
GIÁO DỤC VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG TÂY NGUYÊN CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ
Journal of Science Educational Science - - Trang 34-44 - 2024
Bài viết đề cập đến kết quả của quá trình dạy và học văn hoá truyền thống Tây Nguyên cho học sinh các trường trung học phổ thông dân tộc nội trú. Mặc dù giáo viên và học sinh nhận thức được vai trò rất quan trọng của việc giáo dục văn hoá truyền thống Tây Nguyên, thế nhưng việc dạy và học chưa thật sự đạt hiệu quả cao. Có sự chênh lệch rất lớn về việc đánh giá hiệu quả của quá trình giáo dục giữa học sinh và giáo viên mà nguyên nhân do việc lựa chọn tiêu chí đánh giá khác nhau. Bên cạnh đó, chúng tôi đã đưa ra những đề xuất nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc giáo dục văn hoá truyền thống Tây Nguyên cho học sinh các trường trung học phổ thông dân tộc nội trú.
#văn hoá truyền thống Tây Nguyên #học sinh trung học phổ thông dân tộc nội trú
Tổng số: 112   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10